Những thế cây cổ ( Phần 3) (19/03/2012 03:04:50)

Phần tiếp theo bao gồm 7 thế cây cổ của Việt Nam

17. Thế nhất trụ kình thiên

 


              Thế này ít có người uốn sửa vì thiếu nhã nhặm, khiêm tốn, chọc trời khuấy nước, kiên cường, bất khuất. Thế này phải là cây cổ thụ trực thọ, gốc to lớn, rễ vừng chắc, thân gồ ghề, không có nhánh, chỉ có một tàn ngọn duy nhất bao gồm bốn năm nhánh xoè ra, vươn lên để chống đỡ, tàn ngọn này phải cắt tỉa bằng phẳng hoặc lúp búp chớ không so le, biểu tượng cho người anh hùng không phục tùng ai hế

 

18. Thế vũ trụ


               Thế vũ trụ trước tiên phải là cây cổ thụ, gốc rễ lồi lõm, xoè ra bốn phía, thân to xù xì, đứng thẳng, phân cành nhánh theo lối chiết chi tứ diện, có thể có từ ba đến năm tàn to, uốn hình quạt, nằm ngang, dưới to, trên nhỏ, tỉa lúp búp, ngọn uốn hồi đầu thượng, gần như hình nón chớ không vươn lên cao, Thế này phải uốn đúng luật âm dương, cành tả, hữu, tiền, hậu đầy đủ, sum suê đầy đặn, tượng trưng cho cả không gian và cả thời gian và cả thời gian vĩnh cửu.
Thế thất hiền


              Thất hiền chiết chi là thế cao lớn nhiều tàn một ngọn cộng chung là bảy tầng. Bộ rễ sửa chân nôm, thân có thế trực, nhưng uốn bẻ qua bẻ lại theo tả hữu theo chi âm dương thì hay hơn, nghĩa là đọan thân thứ nhất cong qua bên phải – cùng với nhánh thứ nhất - Đọan thứ 2 trả về bên trái: cứ luôn phiên tới từng thứ sáu, đọan ngọn đứng thẳng và uốn theo kiểu hồi đầu trung, các tàn đều uốn hồng tâm hay tròn lúp búp, dưới to trên nhỏ, nhánh thứ nhất gọi là phủ địa sà xuống mặt đất, nhánh thứ hai là triều nhiên uốn hơi vươn lên một chút, đối xứng với nhánh phủ địa, nhánh thứ 3 là chiếu thủy soi nước phải uốn nằm ngang hơi hạ xuống để nhìn nước, nhưng do ảnh hưởng của nắng, ngọn nhánh quang hợp cũng tự vươn lên, nên phải uốn sủa không thể cho vươn lên cao quá. Nhánh thứ tư là nghinh phong cong qua quẹo lại, như phe phẩy với gió, đầu cành xoay theo chiều gió như kiểu sơn thủy rất đẹp. Nhánh thứ 5 là quán vũ, hơn vươn lên để hứng mưa rơi hứng xương tuyết, nhưng phải uốn trở xuống không để không thể vươn lên quá cao. Nhánh thứ 6 là nhánh trung bình, uốn nằm ngang, cân đối, không dài không ngắn, kết hợp với các nhánh trưuớc nối liền với ngọn, uốn hồi đầu trung, để tạo dáng cây hài hòa, đầy đủ tàn nhánh phải luôn luôn uốn tỉa, hễ cành vươn lên cao thì uốn trở xuống, cành nào thấp quá thì uốn vươn trở lên cho cân đối, theo câu (Cực dương biến âm, cực âm biến dương) làm sao cho dáng cây kiểng không khuyết chỗ nào, để khi ngắm nhìn thưởng thức, vừa ý thỏa lòng. Cây thế thất hiền tượng trưng cho lòng thanh thóat, vô tư, uống rượu ngâm thơ không màn tới thế sự.
Thế tùng thập


              Đây là thế của các cụ ngày xưa dùng làm mẫu để uốn những cây trực thọ, vì cây tùng có dáng thân đứng thẳng, tàn nhánh phân chi nhị diện nằm ngang hai bên, với khỏang cách đều đặn, dưới to trên nhỏ rất đẹp. Cây tùng phải là cây cổ thụ, già nua, rũ tàn nhánh xuống, nhưng vẫn còn giữ được chữ thập tự nhiên mới thật là đẹp, chớ không phải uốn ngang tràn cứng ngắc như người đứng giăng tay giữa trời thì không còn phải cây kiểng nữa. Tướng Tùng thập tượng trưng cho người thanh niên khỏe mạnh, gan dạ bất khuất, nên phải uốn cho dứt khóat, biểu hiện cho tính thẳn thắn như người quân tử. Ông cha ta ngày xưa uốn cây tùng làm mẫu cho những cây kiểng có lá kim khác. Và trong một giàn kiểng ít ra cũng phải có cây tùng, cây bách để nói lên sự vững chãi lâu bền.
Thế chữ vương chữ tường


             Cũng như cây tùng thập thế vương tường uốn theo hình chữ vương, chữ nho có 3 tầng nằm ngang, như chữ dương là con dê, nhưng còn đọc là tường có nghĩa là may mắn, điềm tốt lành, như kiết tường dùng để chúc mừng, để cầu được nhiều điều tốt lành, may mắn, có phước… Thế này có ba từng nằm ngang và có hai ngọn nhỏ. Thế nay tuy rất đơn giản nhưng rất khó uốn, cả ba từng đôi, giăng ngang, phải uốn được ba tàn văn, ba tàn võ, thành ra sáu tàn, dưới to trên nhỏ. Uốn đúng thế rất đẹp. Cây vương tùng nếu là cây cổ thụ thì quí giá vô cùng, tượng trưng thiên mệnh ý chí tối cao vô thượng của các bậc vua chúa.

19. Thế mai nữ

 


                 Thế mai nữ nằm trong câu thiệu (Vô nữ bất thành mai, vô thập bất thành tùng) mà ông cha chúng ta thường dùng để làm mẫu sửa kiểng cổ. Cây mai nữ có thể là cây trực thọ hay là cây suy phong cây trung bình mai nữ rất rễ uốn, là cây cổ thụ có đọan thân bẻ cúp rồi đứng thẳng lên, đủ để uốn nhánh cong qua thành hình chữ nữ là đạt, các tàn nhánh các đều uốn theo lối chiết chi, chỉ có khó là cây mai nữ phải uốn làm sao cho mềm dẻo, yểu điệu, dịu dàng, như người con gái.

               Cây xung phong mai nữ còn lại đẹp hơn, do hình dáng còn uyển chuyển ẻo lả hơn. Thân cây dạng nghiêng nên nhánh tréo nữ ôm lấy thên rất mềm mại duyên dáng. Kế đó thân lại quy căn đắp điếm lấy nhánh mai nữ, bảo vệ người con gái, nên rất đẹp và rất hay, còn có ý nghĩa lòng nhân, đạo đức căn bản về con người. Cây thứ nữ là cây mai nổpi tiếng ở Miền Nam, thường uốn cho cây mai vàng, cây mai chiếu thủy, cây cần thăng, cây kim quýt …đều rất đẹp, cộng thêm bộ rễ khéo léo nổi bật lên nữa là vô giá, ngắm nhìn không chán.
Thế xuy phong


              Thế xuy phong hay xiêu phong cũng là một, xuy là chữ hán, xiêu là chữ nôm, đều phải uốn nghiêng cỡ 30 – 40 độ do bị gió xô đẩy. Phải là cây cổ thụ, gốc rễ lồi lên hình thú hay thân nôm, thân uốn cong như long thân và quy căn hồi đầu, tàn nhánh có thể uốn chiết chi hay tứ diện, nhưng phải vươn ra cho giữ thăng bằng chống lại sức gió. Cho nên còn gọi thế nghinh phong, cũng bốn tàn một ngọn, nhưng cành phải uốn về phía gốc để khỏi đổ ngã, cây xuy phong phải uốn cho đủ cặp để xếp với cây trung bình thành bộ ba cây. Cây bên phải là cây âm, đối xứng với cây bên trái là cây dương (Nam tả hữu nữ). Cây trung bình đứng giữa là cây dẫn đàn, đứng thế chủ động của bộ kiểng.
Thế bạt phong hồi đầu


             Thế này bị gió xô đẩy mạnh nên thân cây nghiêng ngã nhiều hơn, có khi đến 60-70 độ, cành nhánh đều ngã về một bên theo sức của gió, nhưng ngọn bắt buộc phải quy căn và hồi đầu mới đứng vững được. Mặc dầu các cành hầu sơ vơ, xiêu vẹo, nhưng dũng cảm chống chọi với sức gió quay cuồng. Hai nhánh dưới đòi hỏi phải vương tiền phóng hậu, giữ trọng tâm ở trong lòng chậu, hai nhánh trên dù có chênh vênh cũng vẫn giữ được thăng bằng không ngã. Thế này biểu hiện lòng bền chí hiên ngang không khuất phục.

20. Thế phượng vũ

 


              Thế này sửa theo dáng hình chim phượng đang múa. Là cây độc phụ chân phương có hai rễ nổi cao lên thành 2 chân, thân ngắn vặt làm mình ngọn hồi đầu làm đầu chim.

             Cành thứ nhất uốn xèo ra phía sau làm đuôi chim, hai cành tả hữu uốn xèo ra thành hình cánh chim đang múa, đây là phân hay giở của nghệ nhân, phải uốn sao cho uyển chuyển mềm mại như cánh chim múa. Cành phụ che thân làm hầu, ức ngắn gọn. Thế này phải có nét mỹ thuật, khi nhìn là biết chim phượng bay múa, tượng trưng cho tính yêu đời vui tươi.

 

21. Thế hạc lập

 


                 Thế này biến đổi từ thế phượng vũ, nhưng hai cánh không xòe ra, đầu ngẩng lên cao hơn nữa, đuôi cũng không xòe ra, cành hầu cũng ôm lấy thân cây làm cho mình chim hạc hơi dài ra, ngọn vươn cao và hồi đầu hạ để làm mỏ hạc. Thế này gọn gàng, nhưng oai vệ rất đẹp. Biểu hiện lòng tự tin, tính khiêm tốn, nhưng nhất định sẽ thành công.

 

22. Thế ngọa tùng

 

              Thế này là thế hoành độc thụ, rễ xèo ra bốn phía, nhưng rễ đối với thân cây phải khoẻ để làm đối trọng cho cây không đổ ngã. Thân cây nằm ngang mặt chậu rồi vươn lên đứng thẳng và hồi đầu; hướng về gốc, để cho thân cây thăng bằng, thế này khúc khuỷu hơn xuy phong hay bạt phong hồi đầu, cành nhánh, thấp hơn và sà xuống như nhánh thủy đề, soi đáy nước, các nhánh trên sửa theo lối tứ diện cân đối ngắn gọn, uốn tàn vươn lên lúp búp như hoa sen, rất đẹp, duyên dáng yêu đời.
Thế thác đổ

             Thế này kiểng cổ ít có thấy, là thế huyền độc thụ thân nằm bò qua miệng chậu, như bị trận cuồng phong xô ngã xuống ao, nên ngọn cây bẻ cong, thòng xuống thấp hơn đáy chậu. Dáng thật mềm mại uốn cong hợp lý theo luật hồi đầu tự nhiên, vươn lên lúp búp có từng bậc rất đẹp, biều hiện cho sức sống làm cho người xem có cảm giác dễ chịu.

 

23. Thế long cuốn thủy

 


             Thế này dựa vào hình ảnh của rồng hút nước, thế này thường uốn với cây mai chiếu thủy, cây kim quýt. Gốc to, uốn cong lại làm đầu cúi xuống lấy nước, thêm mắt, mũi miệng, trong nhỏ ngòai to. Thân uốn cong như rồng uốn khúc, các cành thân tứ diện làm chân và mây, không xòe ra dài lắm, nhưng vươn móng bám vào mây lấy thế mạnh để hút nước, cành hầu làm mây che lấy thân, ngọn có thể vươn lên xòe ra làm đuôi hoặc hồi đầu vừa cân đối, dáng đẹp, đứng vững vàng hùng vĩ.

 

24. Thế huyền chi lạc địa

 


                  Thế này càng ít thấy, là cây kiểng trên núi non bị bão táp, đổ ngã cong queo qua cơn thiên tai, cành nhánh ngổn ngang, tàn lá liệt địa rơi rụng, hình dung một khung cảnh điêu tàn, nhưng lại là bức tranh tuyệt tác đối với nghệ nhân, trái ngược lại với cây kiểng lúc nào cũng có tàn lá xanh tươi, vươn cao khỏe mạnh. Thế huyền chi lạc địa nếu phân tích kỹ sẽ tìm ra được rễ lồi ngoằn ngòeo, gốc hình thú nằm, thân long uốn khúc cong queo, tàn nhánh gãy cúp theo ngũ chi hiệp nhất, ngọn chiều thiên vươn lên để nhận ánh sáng thật là xinh đẹp lạ lùng, trong cái hỗn độn vô trật tự, có một sức sống vươn lên mãnh liệt.

 

 

Tags:   Thế cây cổ (phần 3)   Cây thế Việt Nam

Nội dung liên quan: